hình ảnh lưỡi người nhiễm hiv
HIV là căn bệnh "thế kỷ" vô cùng nguy hiểm và hiện nay trên thế giới vẫn chưa có một loại thuốc nào có thể điều trị khỏi. Cũng vì lý do đó mà nhiều người thường ám ảnh, xa lánh với người bệnh HIV. Vậy có phải bệnh HIV rất khó lây hay không và lây qua đường nào? Hãy cùng tìm hiểu câu trả lời thông qua bài viết dưới đây của Phòng khám đa khoa Galant.
Dấu hiệu nhận biết nhiễm HIV - Mệt mỏi và đau đầu Khi virus xâm nhập, hệ miễn dịch sẽ tạo ra lớp màng vệ. Phản ứng viêm sẽ xuất hiện, do đó bạn thường cảm thấy mệt mỏi và đau đầu. Một số người còn cảm thấy khó thở. Dấu hiệu nhận biết nhiễm HIV - Sưng hạch bạch huyết, đau nhức cơ và đau khớp Hạch bạch huyết nằm trong hệ thống miễn dịch của cơ thể.
Hình ảnh nấm miệng được thể hiện qua triệu chứng khóe miệng khô, nứt nẻ Khi bị nấm miệng, người bệnh sẽ xuất hiện những mảng trắng trên lưỡi. 3. Nguyên nhân gây nấm miệng Ở trạng thái bình thường, trong khoang miệng vẫn chứa một lượng nấm Candida albicans, tuy nhiên vi khuẩn có lợi trong cơ thể vẫn giúp kiểm soát tốt số lượng nấm này.
Khoảng 2-4 tuần sau phơi nhiễm, hầu hết bệnh nhân sẽ mắc bệnh cúm với triệu chứng phổ biến bao gồm: sốt, nổi hạch, viêm họng, phát ban, đau cơ, khó chịu, lở miệng và thực quản. Ít phổ biến hơn có thể kể đến như nhức đầu, buồn nôn và nôn, sưng gan lách, sút cân và các triệu chứng thần kinh khác.
Moitruong.net.vn - Số lượng người trẻ nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ngày càng tăng và diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Tính đến tháng 4/2021, số ca nhiễm HIV/AIDS cộng dồn trên toàn tỉnh Đồng Nai là 5.886 người. Số người nhiễm mới trong quý I năm 2021
Hình ảnh phổi bị thâm nhiễm như hang lao 19. Bệnh nhân bị nấm hầu họng lưỡi 20. Người bệnh trong tấm hình được chẩn đoán bị nhiễm nấm (histoplasmosis), anh ta có một vết loét ở nướu và nó cũng có xu hướng ngày càng lan rộng 21. IV.
riohoorico1977. AIDS là gì? AIDS là một bệnh nhiễm trùng gây ra bởi virus gây suy giảm miễn dịch ở người bằng cách giết chết hoặc phá hủy các tế bào miễn dịch của cơ thể, cơ thể con người không thể chống lại bệnh này. Những bệnh nhân bị AIDS có nguy cơ tử vong cao do những nhiễm trùng cơ hội gây ra nhiều biến chứng khó lường. AIDS là viết tắt của từ gì? AIDS là viết tắt của từ Acquired Immunodeficiency Syndrome được hiểu là Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải Nguyên nhân gây bệnh AIDS là gì? Bệnh nhân bị nhiễm HIV có thể do các nguyên nhân như quan hệ tình dục, sử dụng kim bị nhiễm HIV trước đó hoặc truyền máu bị nhiễm HIV, truyền từ mẹ sang bào thai hoặc truyền qua em bé mới sinh và bú sữa mẹ. Bệnh nhân sẽ chuyển sang giai đoạn AIDS khi hệ thống miễn dịch suy yếu tới mức không thể chống lại những nhiễm trùng thông thường. Giai đoạn AIDS sẽ diễn ra nhiều tháng hoặc nhiều năm sau khi bị nhiễm HIV. Các nguyên nhân làm cho bệnh AIDS trở nên nặng hơn như sau Uống thuốc không đúng liều và không đi tái khám thường xuyên; Ngừng dùng thuốc bởi khi bạn cảm thấy khỏe hơn, trừ khi được bác sĩ cho phép; sử dụng quá nhiều rượu hoặc sử dụng ma túy; Sử dụng chung kim tiêm hoặc tiêm chích ma túy; Ăn các loại thực phẩm như trứng sống, hàu sống hoặc sữa chưa tiệt trùng có chứa các vi khuẩn có hại; Hiến máu, tinh trùng hoặc các bộ phận khác. AIDS có mấy giai đoạn? Đến giai đoạn AIDS nghĩa là bệnh nhân đã trải qua 04 giai đoạn Giai đoạn sơ nhiễm, giai đoạn nhiễm trùng không triệu chứng, giai đoạn liên quan đến AIDS và giai đoạn bệnh AIDS. Hầu hết bệnh nhân bị AIDS không có triệu chứng trong nhiều tháng hoặc nhiều năm, mặc dù virus vẫn đang hoạt động. Đây có thể coi là một bệnh suy giảm miễn dịch ở người lớn. Một số người có biểu hiện giống bị bệnh giống cúm, kèm theo sốt, nhức đầu, mệt mỏi, phì đại các hạch bạch huyết. Nồng độ máu của các tế bào T CD4 dương còn gọi là tế bào T4 hạ xuống. Có các triệu chứng khác xuất hiện trước khi bước sang giai đoạn AIDS như cơ thể mệt mỏi, sụt cân, thường xuyên sốt, sốt kéo dài và đổ mồ hôi, nhiễm trùng thường xuyên hoặc kéo dài do nấm, trí nhớ trở nên kém đi. Có một số trường hợp bị nhiễm herpes có thể bị đau khi nuốt và có thể có một lớp phủ màu trắng trên lưỡi. Bệnh nhân bị AIDS làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư da và u lympho ung thư mô bạch huyết, một phần của hệ thống miễn dịch. Bệnh AIDS có thể lây truyền từ người này sang người khác thông qua các con đường như Sử dụng chung kim tiêm với người bị AIDS; Lây truyền từ mẹ sang con; Hiến máu, hiến tinh trùng hoặc các bộ phận khác trên cơ thể. Bất kỳ ai cũng có thể bị nhiễm HIV/AIDS nếu nằm trong đường lây truyền. Những người có nguy cơ cao bị mắc bệnh AIDS như Quan hệ tình dục không an toàn, có nghĩa là giao hợp âm đạo hoặc hậu môn hoặc giao hợp bằng miệng mà không dùng bao cao su với một người bị nhiễm HIV; Sử dụng chung kim tiêm để tiêm thuốc hoặc steroid với người bị nhiễm bệnh. Ngoài ra, bệnh cũng có thể lây qua kim tiêm bẩn được sử dụng để xăm hình hoặc xỏ lỗ trên cơ thể; Bị truyền máu từ một người nhiễm bệnh HIV/AIDS. Một em bé cũng có thể bị nhiễm HIV từ sữa mẹ nếu người phụ nữ nhiễm bệnh. Để phòng ngừa bệnh AIDS, có thể kể đến các biện pháp sau Sử dụng bao cao su và quan hệ tình dụng an toàn, không nên quan hệ với nhiều bạn tình; Không sử dụng chất ma túy; Hạn chế hoặc tránh tiếp xúc với khu vực có nhiều người nghiện để tránh nguy cơ bị lây nhiễm; Thường xuyên kiểm tra sức khỏe để kịp thời phát hiện bệnh và có phương pháp điều trị. Để chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh, sẽ cần thông qua bệnh sử, khám lâm sàng và xét nghiệm máu để phát hiện HIV và các bệnh nhiễm trùng khác. Ngoài ra cũng có thể phải sử dụng thêm những xét nghiệm khác như chụp X-quang ngực. Uống thuốc có thể giúp hệ miễn dịch chống lại HIV, kiềm chế HIV phát triển. Ngoài ra có thể sử dụng các loại thuốc khác để điều trị các triệu chứng của bệnh. Duy trì chế độ, thói quen sinh hoạt điều độ cũng có tác dụng giảm diễn tiến của bệnh. Xem thêm Thế nào là HIV dương tính? Bệnh HIV có mấy giai đoạn? Triệu chứng HIV giai đoạn sớm HIV biểu hiện bệnh sau bao lâu? Nguồn gốc và cách virus HIV xâm nhập vào cơ thể HIV lây truyền qua đường nào và lây ở giai đoạn nào?
Một khi HIV tiến triển thành giai đoạn cuối, tỷ lệ tử vong của người nhiễm HIV sẽ tăng lên khá nhiều. Nếu không điều trị, những người đã tiến triển đến giai đoạn cuối thường chỉ sống được trong khoảng 3 năm. Còn nếu trường hợp người bệnh mắc phải một nhiễm trùng cơ hội nguy hiểm, thì thời gian sống chỉ còn 1 năm. Sau khi các tế bào lympho T-CD4 của một người nhiễm HIV giảm xuống dưới 200 tế bào trên 1μL khối máu thì họ được chẩn đoán HIV đã ở giai đoạn cuối cùng, hay còn gọi là là giai đoạn cuối của nhiễm HIV, virus suy giảm hệ miễn dịch ở người, tức là virus HIV này làm tổn thương hệ thống phòng thủ của cơ thể. Một khi HIV tiến triển thành AIDS, các triệu chứng HIV giai đoạn cuối bắt đầu phổ biến vfa tỷ lệ tử vong của người nhiễm HIV sẽ tăng lên khá nhiều. Nếu không điều trị, những người đã tiến triển đến AIDS thường chỉ sống được trong khoảng 3 năm. Còn nếu trường hợp mắc phải một nhiễm trùng cơ hội nguy hiểm, thì thời gian sống chỉ còn 1 năm. 2. Triệu chứng HIV giai đoạn cuối Khi số lượng các tế bào T-CD4 giảm xuống dưới mức 200 tế bào trên 1μL máu, sự miễn dịch qua trung gian tế bào bị vô hiệu và xuất hiện nhiễm trùng do một loạt các vi sinh vật cơ hội gây triệu chứng HIV giai đoạn cuối thường bao gồmSụt cân trên 10% trọng lượng cơ thểSốt, tiêu chảy và ho kéo dài trên 1 tháng;Nhiễm nấm ở hầu họng; nổi ban đỏ, mụn rộp, hạch trên cơ thể và ngứa toàn thân;Cơ thể mệt mỏi, không tập trung. Nhiễm nấm ở hầu họng là một trong các triệu chứng HIV giai đoạn cuối 3. Điều gì xảy ra khi có triệu chứng HIV giai đoạn cuối Khi nhiễm HIV giai đoạn cuối, các hệ thống miễn dịch của cơ thể người bệnh bị tổn thương nghiêm trọng nên đến hậu quả là người bệnh dễ bị các nhiễm trùng cơ hội, đây là các loại nhiễm trùng ở cơ thể người bình thường rất khó hoặc hầu như không bị Nhiễm trùng phổ biếnCác nhiễm trùng phổ biến liên quan đến HIV giai đoạn cuối gồmBệnh lao TB Bệnh lao là bệnh nhiễm trùng cơ hội phổ biến nhất và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở HIV giai đoạn Cytomegalovirus Virus herpes được lây truyền qua các chất dịch cơ thể như nước bọt, máu, nước tiểu, tinh dịch và sữa mẹ gây tổn thương cho mắt, đường tiêu hóa, phổi hoặc các cơ quan nấm candida Candida là một nhiễm trùng phổ biến liên quan đến HIV giai đoạn cuối. Nó gây viêm trên miệng, lưỡi, thực quản hoặc âm Người bệnh bị nhiễm loại bệnh này thông qua ăn uống thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm. Ký sinh trùng phát triển trong ruột và ống mật, dẫn đến tiêu chảy nặng ở những người HIV giai đoạn màng não do cryptococcus Viêm màng não do cryptococcus là một bệnh nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương phổ biến liên quan đến HIV, gây ra bởi một loại nấm được tìm thấy trong độc tố Nhiễm trùng có khả năng gây tử vong này là do Toxoplasma gondii, một loại ký sinh trùng lây lan chủ yếu ở mèo. Động kinh sẽ xảy ra khi ký sinh trùng lan đến não. Ký sinh trùng toxoplasma gondii Các bệnh ung thư ở người nhiễm HIV giai đoạn cuốiUng thư Kaposi Là khối u được hình thành ở thành mạch máu, ung thư này hiếm gặp ở những người bình thường, nhưng phổ biến ở những người bị HIV. Ung thư Kaposi có thể ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng, bao gồm cả đường tiêu hóa và thư hạch Ung thư này bắt đầu trong các tế bào bạch cầu. Dấu hiệu nhận biết là sưng hạch không đau ở cổ, nách hoặc Các loại bệnh khácSút cân không rõ nguyên nhân Người bị nhiễm HIV giai đoạn cuối có thể giảm ít nhất 10% trọng lượng cơ thể và đi kèm với tiêu chảy, suy nhược mãn tính, sốt liên chứng thần kinh Bệnh có thể gây ra các triệu chứng thần kinh như nhầm lẫn,hay quên, trầm cảm, lo lắng và khó đi lại. Một trong những biến chứng thần kinh phổ biến nhất là bệnh mất trí nhớ dẫn đến thay đổi hành thận Là tình trạng viêm ở các bộ lọc nhỏ trong thận. Việc điều trị là dùng thuốc kháng virus. 4. Phương pháp làm chậm tiến triển của HIV giai đoạn cuối Khi xét nghiệm hay phát hiện ra triệu chứng HIV, người bệnh nên điều trị càng sớm càng tốt. Phương pháp điều trị chính ở bệnh HIV là dùng thuốc kháng virus nhằm ngăn chặn virus HIV sinh sản. Điều này giúp bảo vệ các tế bào CD4, giữ cho hệ thống miễn dịch đủ mạnh để chống lại bệnh điều trị bằng thuốc kháng virus cũng nguy cơ lây truyền HIV cho người khác. Một số cách khác có thể giúp làm chậm tiến triển bệnh HIV đến giai đoạn cuối bao gồmCân bằng chế độ ăn uống hằng thể dục thường xuyên Và điều ngơi hợp lý, tránh stress, duy trì tinh thần ổn thuốc lá và các chất kích cáo bác sĩ ngay khi có các triệu chứng HIV bất hệ tình dục an toàn Quan hệ tình dục an toàn giúp làm chậm tiến triển của HIV giai đoạn cuối Điều trị dự phòng Với những người không nhiễm HIV, điều trị dự phòng trước phơi nhiễm PrEP và điều trị dự phòng sau phơi nhiễm PEP có thể làm giảm nguy cơ lây với người thân Hãy trao đổi tình trạng bệnh với người thân để nhận được sự chăm sóc sức khỏe và tâm lý từ sự với những người có cùng hoàn cảnh Hãy tham gia nhóm vào các hỗ trợ HIV, trực tiếp hoặc trực tuyến, vì đó là nơi có thể gặp gỡ những người khác cũng đang phải đối mặt với căn bệnh này. Từ đó có thể hỗ trợ và động viên nhau trong các hoạt động đời sống và các vấn đề bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec có cung cấp Gói Khám, Sàng lọc các bệnh xã hội giúp cho khách hàng có thể phát hiện sớm các bệnh lý và có hướng điều trị hiệu quả, ngăn ngừa biến chứng nguy hiểm. Gói khám sàng lọc các bệnh xã hội tại Vinmec dành cho mọi lứa tuổi, cả nam giới và nữ đăng ký khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, Quý Khách có thể liên hệ Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc, hoặc đăng ký khám trực tuyến TẠI THÊM3 con đường lây truyền của virus HIVBiểu hiện của HIV theo từng giai đoạnCác bệnh lây qua đường tình dục là những bệnh nào? XEM THÊM Tìm hiểu về đặc điểm HIV giai đoạn thầm lặng không có triệu chứng Xét nghiệm HIV có cần nhịn ăn? Thời điểm nào xét nghiệm HIV cho kết quả chính xác nhất?
Biểu hiện vùng miệng của nhiễm HIV – AIDS I. Mở đầu Các biểu hiện vùng miệng liên quan đến nhiễm HIV thường gặp ở bệnh nhân BN nhiễm HIV 30%- 80% nhưng ít được chú ý đến và không được xử trí đúng mức. Ngoài xuất độ cao, đây còn là một nhóm tổn thương có ý nghĩa về nhiều mặt và được chú ý đến ngay từ thời kỳ mới xuất hiện dịch bệnh vì - Những tổn thương này xảy ra trong miệng và do đó tương đối dễ phát hiện và dễ theo dõi. - Những tổn thương này thường xảy ra khi bắt đầu có tình trạng suy giảm miễn dịch và do đó mang tính báo trước cho sự chuyển giai đoạn AIDS. - Những tổn thương này ảnh hưởng đến chức năng ăn nhai nên càng làm cho bệnh nhân suy yếu hơn về thể chất và khả năng đề kháng. - Gần đây, khi BN được điều trị theo chế độ HAART, có sự thay đổi trong tỉ lệ cũng như mô hình các tổn thương niêm mạc miệng. Các yếu tố làm tăng nguy cơ bị những tổn thương vùng miệng liên quan HIV bao gồm - Số CD4 3000 phiên bản ARN/ml, tình trạng khô miệng, vệ sinh răng miệng kém, hút thuốc lá. Khi phát hiện tổn thương ở người chưa biết mình bị nhiễm HIV, sự hiện diện của tổn thương liên quan HIV khiến phải nghĩ đến tình trạng nhiễm HIV và xét nghiệm để xác định, đối với BN bị nhiễm HIV chưa điều trị ART, sự xuất hiện tổn thương là dấu hiệu bệnh đang tiến triển, đối với người nhiễm HIV đang điều trị HAART, việc xuất hiện một vài loại tổn thương là dấu hiệu của sự tăng trở lại nồng độ HIV-1 RNA trong huyết tương. II. các tổn thương niêm mạc miệng liên quan nhiễm HIV Năm 1996, Cộng đồng Kinh tế Châu Âu công bố bảng phân loại của các biểu hiện vùng miệng của bệnh nhiễm HIV như sau NHIỄM NẤM Nhiễm Candida dạng màng giả, dạng ban đỏ, dạng tân sinh, chóc mép. Nhiễm Histoplasma, Cryptococcus, Geotrichosis. NHIỄM KHUẨN Viêm nướu hoại tử - HIV, Viêm nướu- HIV, Viêm nha chu- HIV. Tổn thương viêm nhiễm do Mycobacterium avium intracellulare, Klebsiella pneumoniae, Enterobacterium cloacae, E. Coli. Actinomycosis, Bệnh mèo quào, Viêm xoang, nhiễm trùng do răng,… NHIỄM VIRUS Herpes Simplex Virus. Cytomegalovirus. Epstein- Bar virus Bạch sản tóc. Varicella – Zona virus thủy đậu, zona. Human papilloma virus Verruca vulgaris, Condyloma acuminata, Focal epithelial hyperplasia. TÂN SINH Kaposi sarcoma. Carcinoma tế bào vẩy. Lymphoma không Hodgkin. RỐI LOẠN THẦN KINH Bệnh dây thần kinh tam thoa. Liệt mặt. KHÔNG RÕ NGUYÊN NHÂN Loét áp tơ tái phát. Tiêu biểu mô do ngộ độc. Thiếu tiểu cầu nguyên phát. Khô miệng. Loét không điển hình. Chậm lành thương. Phì đại tuyến nước bọt. Tăng nhiễm sắc Melanin. NHIỄM NẤM Nhiễm Candida ngay từ những báo cáo đầu tiên năm 1981 về hội chứng AIDS đã có đề cập đến nhiễm Candida vùng miệng. Tuy nhiên, hầu như mọi trường hợp mô tả lúc đó đều ở dạng màng giả. Sau này, các dạng khác như dạng ban đỏ, tăng sinh và chóc mép đều được báo cáo với những tỉ lệ khác nhau ở người huyết thanh dương tính. Nhiễm Candida dạng màng giả hiện diện như những mảng trắng hay vàng vàng trên niêm mạc đỏ hay bình thường. Khi cạo, mảng trắng tróc ra để lại một bề mặt ướm máu. Vị trí thường gặp ở khẩu cái, niêm mạc má, môi và lưng lưỡi. Nhiễm Candida dạng tăng sinh đặc trưng là những mảng trắng không thể cạo đi được. Vị trí thường gặp là niêm mạc má, lùi về phía trong, ngược với vị trí gần khóe mép thường gặp ở những người không bị nhiễm HIV. Nhiễm Candida dạng ban đỏ hay dạng teo biểu hiện dưới dạng tổn thương màu đỏ sậm nổi bật hay rất kín đáo. Vị trí thường gặp ở khẩu cái, lưng lưỡi làm mất gai lưỡi, dạng nhiễm này tuy rất đặc trưng của nhiễm HIV nhưng thường bị bỏ qua vì ít gây triệu chứng lâm sàng và không làm cho bệnh nhân khó chịu. Chóc mép xảy ra khi bệnh nhân ở vào tuổi trung niên và không kèm theo các yếu tố bệnh căn của chóc mép thông thường như thiếu máu, thiếu vitamin, mất kích thước dọc. Tỉ lệ người nhiễm HIV có kèm nhiễm nấm candida thay đổi rất nhiều tùy theo tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm nấm và mẫu điều tra vào khoảng 66%. Nhiễm nấm candida đã được nghiên cứu như một dấu hiệu báo trước sự chuyển sang giai đoạn AIDS, đặc biệt là nhiễm candida dạng màng giả. Klein so sánh 22 bệnh nhân bị hạch toàn thân, có tỉ lệ T4/T8 đảo ngược, đồng thời bị nhiễm candida dạng màng giả, với 20 bệnh nhân ở tình trạng tương tự nhưng không bị nhiễm candida. Theo dõi trong 3 tháng cho thấy ở nhóm thứ nhất có 59% chuyển sang giai đoạn AIDS với sự xuất hiện của những nhiễm trùng cơ hội nặng, hoặc sarcom Kaposi trong khi ở nhóm thứ nhì không có người nào chuyển sang AIDS. Như vậy, có thể kết luận là một sự suy giảm số tế bào Lympho T4 cùng với sự nhiễm nấm candida là một dấu hiệu tiên lượng xấu, báo trước cho sự xuất hiện AIDS ở bệnh nhân nhiễm HIV. Chẩn đoán lâm sàng có thể xác định bằng soi tươi hoặc sinh thiết, cho thấy tế bào nấm ở dạng sợi phân nhánh hay bào tử. Điều trị tại chỗ dung dịch súc miệng tím gentian, Clotrimazole viên ngậm 10mg 5 lần/ ngày x 14 ngày, dung treo Nystatin đv. súc 5 ml x 4 lần/ ngày x 14 ngày, viên ngậm Nystatin viên đv x 4 lần/ x 14 ngày. Điều trị toàn thân Fluconazole, viên 100 mg x 2 trong ngày đầu, 1 viên/ ngày trong 14 ngày kế tiếp. NHIỄM KHUẨN Bệnh nha chu liên quan nhiễm HIV Thường có những biểu hiện trầm trọng hơn bệnh nha chu thông thường, đáp ứng kém hơn với điều trị kinh điển, tiến triển nhanh hơn, gây mất xương và lộ chân răng nhiều hơn. Viêm nướu viền đỏ Dấu hiệu thường là một đường viền đỏ ở nướu với những điểm viêm đỏ ở niêm mạc xương ổ, nướu dễ chảy máu dù vệ sinh răng miệng tốt và ít có tích tụ mảng bám. Các điểm viêm đỏ có thể do sự bội nhiễm Candida. Đôi khi thấy gai nướu sưng phồng ở vài vị trí. Nha chu viêm Mô nha chu bị tiêu hủy nhanh chóng, đau nhức nhiều, răng lung lay. Trái với bệnh nha chu thông thường, có sự tiêu mất các mô nâng đỡ nhưng túi không sâu. Có thể kèm viêm nướu lở loét hoại tử. Viêm nha chu lở loét hoại tử thường chỉ gặp ở trẻ suy dinh dưỡng, hay bị các bệnh làm suy giảm hệ thống miễn dịch. Ở người trưởng thành bị nhiễm HIV cũng dễ thấy bệnh này. Các vi khuẩn gây bệnh, ngoài một số vi khuẩn thường gặp trong các bệnh nha chu, còn có một số vi khuẩn kỵ khí có độc tính rất cao như Eikenella, Wollinella, Bacteroides, do tình trạng nhiễm HIV tạo những điều kiện thuận lợi làm cho tạp khuẩn trong khe nướu chuyển đổi sang các giống vi khuẩn có tính gây bệnh mạnh hơn. Thường các bệnh nhân bị nha chu viêm có hệ số T4/T8 thấp hơn các bệnh nhân bị viêm nướu, đồng thời có sự khiếm khuyết của chức năng bạch cầu đa nhân. Điều trị các dạng bệnh nha chu ở người nhiễm HIV phải được điều trị bằng biện pháp vệ sinh răng miệng kỹ lưỡng, có thêm biện pháp rửa các tổn thương với Betadine 10% và súc miệng hàng ngày với 0,12% chlorhexidine gluconate cho đến khi khỏi bệnh. Bệnh nhân bị đau và có tổn thương cấp tính phải được điều trị kháng sinh chống vi khuẩn yếm khí gram âm như Metronidazole viên 500 mg x 2 lần/ x 7- 10 ngày, hoặc Clindamycine và Amoxycilline. Đồng thời phải xử lý đau và tăng cường dinh dưỡng. Nhiễm khuẩn Lao Nhiễm khuẩn Lao Mycobacterium tuberculosis tăng một cách đáng kể ở người nhiễm HIV. Tổn thương do Lao trong miệng có thể xuất hiện như một vết loét ở lưỡi. Nhiễm Mycobacterium avium cellulare MAI gây nhiễm trùng phổi, trong miệng có thể tạo vết loét có phản ứng viêm hạt và hoại tử xương. Nhiễm Klebsiella pneumoniae và Enterobacterium cloacae có thể gây viêm loét ở lưỡi, khẩu cái. NHIỄM VIRUS Nhiễm Herpes Simplex Virus HSV ở bệnh nhân nhiễm HIV, viêm miệng Herpes xảy ra với tỷ lệ 5-13%, gây tổn thương trầm trọng và lan tỏa hơn là ở người không nhiễm HIV, bệnh dai dẳng, khó điều trị dứt điểm và dễ tái phát. Điều trị tại chỗ bằng Acyclovir. Nhiễm Varicella Zoster virus VZV có thể xem như một triệu chứng sớm của nhiễm HIV, ở bệnh nhân HIV khi bị nhiễm virus VZV có 23% bị AIDS sau 2 năm và 46% sau 4 năm. Điều trị toàn thân Acyclovir viên 800mg x 4 viênx 10 ngày. Nhiễm Human papilloma Virus HPV nhiễm HIV có vẻ làm cho dễ nhiễm HPV vùng miệng với những type HPV ít gặp như type 13, 18, 32 và gây tổn thương phần mềm như papilloma, verruca, condyloma, focal epithelial hyperplasia, carcinoma. Điều trị tại chỗ bằng 5-fluorouracil. Bạch sản tóc Hairy Leucoplakia Bạch sản tóc được mô tả đầu tiên vào cuối năm 1981 ở San Francisco, sau đó được ghi nhận khá phổ biến ở bệnh nhân nhiễm HIV ở nhiều nước. Đó là một tổn thương thường gặp ở bệnh nhân đang ở giai đoạn muộn của nhiễm HIV và AIDS dưới dạng một mảng màu trắng, thường thấy ở hông lưỡi, ở cả 2 bên. Bề mặt có nếp xếp giống như tóc, có khi có bề mặt phẳng, nhẵn láng. Vị trí thường gặp ở hông lưỡi, bụng lưỡi và ít gặp ở niêm mạc má, môi, sàn miệng, khẩu cái mềm, yết hầu. Có khi tổn thưong gây đau rát do bội nhiễm candida. Hình ảnh mô học cho thấy sự tăng sinh lớp gai và lớp sừng, làm cho lớp biểu mô dày lên và có khi tạo những nếp xếp hình sợi tóc. Trong lớp biểu mô thấy có những tế bào phình to hơi giống các koilocyte của nhiễm HPV. Các xét nghiệm labo cho phép phát hiện Epstein – Bar virus EBV trong các tổn thương này. Hiện nay, có 2 giả thuyết để thử giải thích tại sao EBV bội nhiễm ở niêm mạc miệng, hoặc là do nhiễm HIV làm mất tế bào Langerhans khiến cho EBV có sẵn tại chỗ được hoạt hóa hoặc thụ thể EBV trên tế bào hong lưỡi bị lộ tối đa khi nhiễm HIV, cho nên dễ gắn virus EBV. Bạch sản tóc là một tổn thương được xem là đặc trưng nhất của nhiễm HIV vùng miệng và cho phép tiên đoán sự tiến gần đến giai đoạn AIDS, tuy nhiên cần phải chẩn đoán sai biệt với một số tổn thương trắng khác. Không cần điều trị bạch sản tóc trừ khi có yêu cầu thẩm mỹ. Ở bệnh nhân được điều trị ART, sự xuất hiện của bạch sản tóc là một dấu hiệu của điều trị thất bại. TÂN SINH 3 loại tân sinh có ghi nhận liên quan đến nhiễm HIV. Những tân sinh này, hoặc là do tác nhân sinh ung, virus sinh ung làm cho ung thư xảy ra ở người suy giảm miễn dịch, hoặc là do một cơ chế gây bệnh nào khác. Sarcom Kaposi Năm 1872, Moritz Kaposi mô tả một loại bướu gọi là “Sarcom nhiều ổ nguyên phát gây xuất huyết” và xem đó là một bướu ác tính của các tế bào thành mao mạch, xuất hiện ở người Phi Châu với một tỉ lệ rất thấp. Khi dịch bệnh HIV xuất hiện ở San Francisco, sarcom Kaposi gây sự chú ý vì xuất hiện nhiều ở nhóm đồng tính luyến ái, và tác nhân gây bệnh được nghi ngờ là virus CMV, herpes... Tuy nhiên, các cố gắng để phân lập virus đều thất bại. Hiện nay, không thể loại trừ khả năng Sarcom Kaposi không phải là một loại tân sinh thật sự mà là kết quả của sự tăng sinh mạch máu do HIV kích thích một yếu tố tăng sinh mạch máu angioproliferative factor. Ở bệnh nhân AIDS, sarcom Kaposi thường có những tổn thương nhiều ổ, khởi đầu là dạng ban đỏ, sần hay hòn đỏ xuất hiện ở da hay niêm mạc. Ngoài da, vị trí hay gặp là ở thân người, chân, tay. Ở mặt vị trí đặc trưng là đầu mũi. Tổn thương ở da lan rông và sậm màu dần, và các tổn thương lân cận thì dễ dính lại với nhau. Ngoài ra, sarcom Kaposi có thể ảnh hưởng đến các phủ tạng. Trong miệng, sarcom Kaposi được để ý đầu tiên vào năm 1982 ở nhóm đồng tính luyến ái ở San Fracisco và sau đó, năm 1988, một nghiên cứu theo dõi trên 134 bệnh nhân cho thấy tổn thương này thường xuất hiện vào tuổi trung bình là 34 tuổi, 45% có đồng thời với tổn thương da và 22% xuất hiện trước. Sarcom Kaposi trong miệng có thể xem là dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn AIDS .Vị trí thường gặp trong miệng là khẩu cái, đặc biệt là ở một bên khẩu cái, kế đến là nướu và lưỡi. Tổn thương bắt đầu như một mảng đỏ hơi xanh hay đen kế đến to dần, sậm màu và nổi gồ lên, có bề mặt lở loét hay nhiều múi. Tổn thương thường hơi rắn trước khi loét bề mặt. Hình ảnh vi thể của Sarcom Kaposi rất đặc trưng, cho thấy có sự tăng sinh những dãy tế bào nội mô hình thoi hay hơi phình, đan vào nhau và rất nhiều mạch máu. Khi Sarcom Kaposi xuất hiện đồng thời với một nhiễm trùng cơ hội, thời gian sống sót trung bình của bệnh nhân từ 6 đến 9 tháng. Sarcom Kaposi ít được ghi nhận ở BN nhiễm HIV ở Thái Lan và Việt Nam. Điều trị bằng cách tiêm Vinblastine sulfate tại tổn thương. Lymphom không Hodgkin NHL NHL xuất hiện ở bệnh nhân nhiễm HIV với tỉ lệ cao hơn ở người bình thường. NHL thường liên quan đến tế bào Lympho B va có thể chứa virus EBV. NHL rất hiếm gặp trong miệng so với các vị trí khác như hạch lympho, tủy xương, gan và màng não. Trong miệng vị trí được ghi nhận là vòng Waldeyer, nướu và tuyến mang tai, làm mô mềm tăng sinh và hủy hoại xương bên dưới. Carcinom tế bào vảy Ở bệnh nhân nhiễm HIV, có báo cáo cho thấy carcinom tế bào vẩy xuất hiện trong miệng đặc biệt ở lưỡi. Hiện nay có giả thuyết cho rằng tỉ lệ ung thư miệng cao ở người trưởng thành trẻ phái nam được cho là có thể liên quan với nhiễm HPV. KHÔ MIỆNG Khô miệng là nguyên nhân chính gây sâu răng ở người nhiễm HIV. 30%- 40% người nhiễm HIV bị khô miệng do sự thâm nhiễm tế bào CD8 trong các tuyến nước bọt lớn có thể gây phì đại tuyến hai bên hoặc do tác dụng phụ của các thuốc ART như didanosine. Những thay đổi về chất và lượng của nước bọt dễ dẫn đến sự giảm khả năng kháng khuẩn, đa sâu răng và viêm nha chu. Người nhiễm HIV nghiện ma túy hay sử dụng methamphetamine, có nguy cơ bị đa sâu răng do khô miệng, nhu cầu ăn đường cao, dinh dưỡng kém và vệ sinh răng miệng kém cùng với tác dụng soi mòn của các chất acid và chất tẩy có trong methamphetamine tinh thể. III. PHÒNG NGỪA CÁC BIỂU HIỆN VÙNG MIỆNG CỦA NHIỄM HIV Để phòng ngừa các biểu hiện miệng của nhiễn HIV cần Tăng cường các biện pháp vệ sinh răng miệng cá nhân, súc miệng bằng dung dịch tím gentian pha loãng và dung dịch kháng khuẩn, Đi khám định kỳ để điều trị sớm sâu răng, bệnh nha chu và các tổn thương khác, Thực hiện lối sống lành mạnh và chế độ dinh dưỡng cân bằng. BS. Huỳnh Anh Lan Khoa RHM – ĐH Y Dược Tp HCM
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi BSCKI Lê Hữu Đồng - Trưởng khoa Khám bệnh & Nội khoa, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang. Virus HIV có thể lây truyền ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình nhiễm bệnh và nó sẽ phá hủy dần dần hệ thống miễn dịch của cơ thể. Do vậy, việc phòng chống lây nhiễm HIV và điều trị sớm là rất quan trọng. Ở mỗi giai đoạn, HIV lại có những biểu hiện bệnh khác nhau, chúng ta cần tìm hiểu để có phương pháp điều trị kịp thời. 1. Giai đoạn cấp tính Ở giai đoạn đầu của HIV, người bệnh có thể gặp các triệu chứng giống như cảm cúm, có thể là sốt nhẹ, khoảng 37,5 - 38,5 độ C ngay sau khi bị chứng này thường kéo dài khoảng một tháng. Ngoài ra, người bệnh cũng có thể bị sốt, đau đầu, suy nhược, sưng hạch đặc biệt ở cổ và bẹn sau khi nhiễm từ 2 - 4 tuần. Phản ứng của hệ miễn dịch cũng có thể khiến người bệnh cảm thấy vô cùng mệt mỏi và buồn ngủ, thường cảm thấy đau cơ, khớp hoặc buồn nôn, tiêu là thời điểm virus di chuyển vào trong máu và bắt đầu nhân rộng với số lượng lớn. Các hiện tượng viêm, sưng chính là phản ứng của hệ miễn dịch. Nhưng không phải ai nhiễm HIV cũng xuất hiện những triệu chứng này. Các xét nghiệm sàng lọc thông thường cũng không xác định được bệnh nên giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn “cửa sổ”. Virus HIV 2. Giai đoạn không có triệu chứng Ở giai đoạn này, người sống chung với HIV có thể không xuất hiện bất cứ triệu chứng nào. Lúc này, bạch cầu chỉ bị tiêu diệt một số lượng nhỏ không đáng kể. Nhưng thực chất, virus HIV vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Nhìn bề ngoài, không ai có thể biết được bệnh nhân đã bị nhiễm HIV, ngay cả chính bản thân người bệnh nếu chưa xét nghiệm máu. Đối với những người không sử dụng thuốc điều trị HIV, giai đoạn này có thể kéo dài từ 10 năm hoặc dài hơn, nhưng bệnh sẽ tiến triển nhanh hơn. Những người phát hiện và sử dụng thuốc đúng cách mỗi ngày có thể trì hoãn tiến độ bệnh ở giai đoạn này trong nhiều thập kỷ vì thuốc có thể kìm hãm virus tấn công cơ vẫn có thể lây truyền sang người khác trong giai đoạn này ngay cả khi họ không có triệu chứng nào. Và kể cả khi virus HIV trong người bệnh đang bị kìm hãm bằng thuốc điều trị thì sự lây truyền vẫn có thể xảy ra nhưng khả năng thấp hơn những người không điều những giai đoạn tiếp theo, số lượng virus gia tăng, tấn công và tiêu diệt các tế bào của hệ miễn dịch mạnh mẽ và làm suy yếu cơ thể. 3. Giai đoạn có triệu chứng nhẹ Người bệnh có thể gặp các triệu chứng như Sút cân nhẹ; loét miệng; phát ban sẩn ngứa; nhiễm herpes zoster; nhiễm khuẩn đường hô hấp trên tái phát, ví dụ như viêm xoang hoặc viêm tai tái diễn. Đây còn gọi là giai đoạn cận AIDS. Giai đoạn bệnh nhân có triệu chứng nhẹ 4. Giai đoạn tiến triển nặng Giai đoạn này còn gọi là AIDS. Đây là giai đoạn cuối cùng của nhiễm HIV và cũng là kết thúc bi thảm khó tránh khỏi ở những người bệnh. Biểu hiện lâm sàng của AIDS là các rối loạn liên quan đến suy yếu hệ miễn bệnh bắt đầu nổi hạch toàn thân kèm theo đó là những cơn sốt. Cùng với đó là các hiện tượng tiêu chảy kéo dài đến hơn một tháng, cùng sự sút cân mạnh khoảng 10% thể trọng cơ thể. Do cơ thể mất đi hàng rào bảo vệ nên bất kỳ vi khuẩn, virus nào cũng có thể dễ dàng tấn công và gây giai đoạn này, hệ miễn dịch bị tàn phá gần hết, người bệnh dễ dàng tử vong vì các nhiễm trùng cơ hội như viêm màng não, viêm phổi, viêm ruột hoặc ung thư hạch,... Giai đoạn này thường kéo dài không quá 2 năm, có một số thuốc được dùng nhưng chỉ giúp kéo dài sự sống thêm một thời gian ngắn, không thể hoàn toàn điều trị dứt bệnh tiến triển nặng hơn, cơ thể người bệnh chỉ còn lại “da bọc xương” do sụt cân mạnh, nấm miệng, u phổi phát triển không ngừng,... Các bệnh lý về cơ xương khớp hay viêm loét miệng, miệng bị hoại tử rất những giai đoạn muộn về sau, khả năng sống sót sẽ thấp dần đi, cơ thể suy nhược, tiều tụy, không sức sống, khả năng tử vong cao. AIDS là giai đoạn cuối cùng của nhiễm HIV 5. Nên xét nghiệm HIV khi nào? Quan hệ tình dục qua đường hậu môn hoặc đường âm đạo mà không dùng bao cao su với người không phải là vợ/chồng của quan hệ tình dục không an toàn nghĩa là không sử dụng bao cao su hoặc sử dụng bao cao su không đúng cách với người tiêm chích ma túy hoặc với những người có quan hệ tình dục với nhiều người chích ma túy hoặc dùng chung bơm kim tiêm với người khác. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Bài viết tổng hợp từ nguồn Tổ chức Y tế thế giới WHO Khám sức khỏe định kỳ tại Vinmec Bảo vệ bạn trước khi quá muộn!
hình ảnh lưỡi người nhiễm hiv